CHƯƠNG
I
Dự Bị Tu
Tập
Quy y, lễ lạy và Bồ Ðề
Tâm
Giải nghĩa về cách thức tu tập
Ðại Thủ Ấn của trường phái Kagyu bao gồm ba phần: dự bị tu tập, tu tập
chính yếu và kết luận.
Phần thứ nhất bắt đầu bằng sự
quy y và phát triển tâm Bồ Ðề.
Các cách thức dự bị tu tập được
chia làm hai loại: chung (căn bản) và riêng. Quán chiếu về thân người khó
được, về vô thường và chết, về nghiệp báo hay luật nhân quả, về sự đau khổ
của luân hồi, là những pháp quán căn bản và chung cho tất cả các trường
phái Phật Giáo. Riêng Kim Cang thừa có thêm bốn pháp dự bị tu tập đặc biệt
(ngeun-dro): vừa lạy Phật vừa quy y (quy lạy), Kim Cang quán (méditation
de Vajrasattva), cúng dường Mạn Ðà La (offrande du Mandala) và Bổn Sư Du
Già (Guru-yoga). Bốn pháp này có thể được tu tập theo nhiều cách, nhưng
thông thường nhất là thực hành 100.000 lần mỗi pháp theo thứ tự trong một
thời gian ấn định như (ba, bốn năm) với một sự tinh tấn không gián đoạn.
Còn có một cách tu tập khác là phân chia đều bốn pháp trên thành số lượng
nhỏ và ấn định làm thời khóa thường nhật. Số lượng này không nhất định, có
thể thay đổi, nhưng phải thực hành liên tục cho tới khi thấy được hảo
tướng mới thôi. Ngoài ra các pháp dự bị tu tập cũng có thể thay đổi, tùy
theo vị Thầy (Lama) quyết định xem cái nào phù hợp hơn với căn tánh của đệ
tử.
Sau đây là những pháp dự bị tu
tập tổng quát của trường phái Karma-Kagyu. Về những lời chỉ thị đặc biệt
và tỉ mỉ cần phải được giảng dạy từ vị Thầy riêng của mỗi
người.
Mục đích của sự dự bị tu tập là
tẩy trừ những nghiệp xấu làm chướng ngại cho việc tu tập, và tích tụ nhiều
công đức để tiến nhanh đến đạo quả. Sự quy lạy và Kim Cang quán thuộc mục
đích thứ nhất, cúng dường Mạn Ðà La và Bổn Sư Du Già thuộc mục đích thứ
hai. Trong khi quán chiếu về luật nhân quả, về những nghiệp xấu đã tạo
trong quá khứ và sự đau khổ kham chịu trong kiếp hiện tại, ta cần phải
phát tâm sám hối trở về nương tựa nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Cúng
dường lễ lạy Tam Bảo sẽ giúp ta thanh lọc những mầm mống của đau khổ.
Ngoài ra cũng cần quán chiếu và ghi nhận rằng tất cả chúng sinh đều muốn
xa lánh đau khổ nhưng lại luôn luôn làm điều độc ác và ích kỷ, muốn có
hạnh phúc nhưng không bao giờ hành động đạo đức hay từ bi, bởi thế nên vẫn
đau khổ triền miên. Quán chiếu như vậy xong, ta làm khởi lên lòng đại bi
và nghĩ rằng sự tu tập của ta cũng thanh lọc luôn cả nghiệp chướng của họ.
Cuối cùng phối hợp Bồ Ðề Tâm với sự quy lạy, ta nguyện tiêu trừ tất cả
nghiệp chướng, sớm thành Phật để có thể thực sự làm lợi ích cho tất cả
chúng sinh.
Trên khoảng hư không trước mặt,
hãy quán tưởng có một thân cây năm nhánh. Vị Thầy Bổn Sư ngồi ở nhánh giữa
(dưới hình thức Vajradhara), ở nhánh trước mặt (vị Bổn Sư) có tất cả Hộ
Thần Kim Cang (Yidam), ở nhánh bên phải (vị Bổn Sư) là tất cả chư Phật
(Buddha), ở nhánh sau lưng là tất cả Giáo Pháp (Dharma), và ở nhánh bên
trái là toàn thể Tăng Già (Sangha). Quán tưởng như thế rồi ta bắt đầu quy
y (trong lúc lạy xuống) và quán tưởng rằng tất cả chúng sinh (là cha mẹ)
đều tề tựu sau lưng ta và cũng quy lạy như ta.
Ðây là phép quán về ruộng công
đức (phước điền) hay Cây Lịch đại Tổ Sư. Quán tưởng ta đang ở trong một
vườn hoa thanh tú, có những bãi cỏ êm dịu và một bầy thú hiền hòa. Ở chính
giữa là một cái hồ tuyệt đẹp có một cây làm toại nguyện tất cả điều ước
như đã tả ở trên. Vajradhara (Tạng ngữ: Dorjé Chang) là một hóa thân của
Phật khi thuyết về Mật giáo Tantra. Những vị Hộ Thần (Yidam) gồm có:
Vajrayogini, Héruka, ...; chư Phật ở đây là chư Phật ba đời: Quá khứ, hiện
tại, vị lai; Giáo Pháp gồm tam tạng Kinh điển (Tripitaka); Tăng Già bao
gồm tất cả chư Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Ở phần dưới thân cây có các
vị Hộ Pháp (Dharmapala) như Mahakala, Mahakali, ... Nếu không biết rõ hình
tướng các vị trên, hoặc không thể quán tưởng một cách rõ ràng, ta cũng
đừng nên lo ngại. Ban đầu chỉ cần tin tưởng nơi sự hiện diện của các vị ấy
là đủ. Với sự luyện tập lâu dài, với những tranh hình (Thangka) của các vị
ấy, ta sẽ quán tưởng rõ hơn sau này.
Tiếp theo quán tưởng ta dưới
hình thức bình thường bên phải là tất cả các chúng sinh
nam, bên trái là tất cả các chúng sinh nữ. Tưởng nghĩ
rằng chung quanh ta là một đám đông vô kể, cả người lẫn thú; dẫn đầu tất
cả, ta đảnh lễ và quy y. Khi bắt đầu đảnh lễ, chắp hai bàn tay lại, đưa
lên đụng đảnh đầu rồi xuống đụng trán, đụng cổ, ngực rồi quỳ xuống đất
duỗi thẳng toàn thân, hai tay đưa tới trước, xong rồi liền đứng dậy. Cùng
lúc lạy như vậy, ta đọc lên những câu sau: "Con và tất cả chúng sinh, cha
mẹ nhiều đời, đầy khắp hư không, xin quy y nơi chư Thầy Tổ tôn kính. Chúng
con xin quy y nơi các vị Hộ Thần Kim Cang và toàn thể chư Thần trong Mạn
Ðà La. Chúng con xin quy y nơi chư Phật ba đời. Chúng con xin quy y nơi
Thánh Pháp. Chúng con xin quy y nơi chư Thánh Tăng. Chúng con xin quy y
nơi toàn thể chư Thần Dakas, Dakinis, Hộ Pháp và Hộ Mạng". Hãy thực hành
như vậy với sự chánh niệm tối đa, với lòng tin kính và thành thật.Ba pháp
thực hành trên: lạy, tụng, quán tưởng được gọi là thân lạy, khẩu lạy và ý
lạy, cần được thực hiện ít nhất 100.000 lần. Trước khi tu tập các thời
khóa thiền quán khác, cũng nên lạy ít nhất là 7 lần.
Trong lúc tu tập về pháp quy
lạy, ta sẽ cảm thấy cực nhọc và mệt mỏi. Nhưng hãy xem đó như là một mũi
thuốc chích, tuy đau đớn nhưng sẽ cứu ta khỏi bệnh. Tuy nhọc mệt nhưng ta
vẫn vui vẻ, vì từ đời vô thỉ đến nay, ta đã tạo không biết bao nhiêu
nghiệp xấu, đúng lý ra ta sẽ phải chịu nhiều quả báo đau khổ hơn trong ba
đường ác, nhưng nay nhờ chịu đựng tu tập mà ta sớm giải thoát. Trong khi
lạy nếu cảm thấy nóng hay lạnh thì hãy cầu nguyện cho tất cả chúng sinh ở
địa ngục sớm thoát khỏi đau khổ của hỏa ngục và hàn ngục. Nếu bị đói khát,
ta hãy nguyện cho loài ngạ quỷ sớm được no đủ; hoặc khi đầu óc ta trở nên
nặng nề và đờ đẫn vì nhọc mệt, ta hãy nguyện cho mọi loài súc sinh sớm
thoát khỏi ngu si. Với một đức tin sâu đậm và kiên cố, ta sẽ đánh bạt mọi
phiền não khởi lên trong lúc tu tập. Nếu có những ý niệm khởi lên bảo ta
ngưng tập và đi tìm một pháp môn khác, ta hãy nhìn chúng như một đám điên
phá phách, bỏ qua không thèm để ý đến chúng.
Ta đọc tiếp: "Từ nay cho đến
ngày giác ngộ, con xin quy y Phật, Pháp, chư hiền thánh Tăng...". Cùng lúc
ta suy nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh đều đã là cha mẹ con, con xin quy y
và phát triển tâm Bồ Ðề". Sau đó ta quán tưởng về Tứ Vô Lượng
Tâm.
Tứ Vô Lượng Tâm là nguyện cho
tất cả chúng sinh:
1) đều được an vui hạnh phúc
và tạo nhiều căn lành;
2) đều thoát khỏi đau khổ và ngưng tạo điều
ác;
3) được sống trong thương yêu và hòa thuận;
4) đều có tâm bình
đẳng, không thương người thân, ghét kẻ thù.
Cuối cùng, quán tưởng rằng tất
cả đối tượng quán chiếu (sở quán) đều tan biến thành ánh sáng (hào quang)
thấm nhập vào ta và giòng tâm thức [1] của ta trở nên thanh
tịnh.
Sau mỗi thời khóa quy lạy, hãy
quán tưởng làm tan biến tất cả hình tướng của Cây Lịch đại Tổ Sư thành hào
quang thấm nhập vào ta và đưa ta vào trạng thái bất nhị trống rỗng, trong
suốt, không còn dính mắc vào một khái niệm hiện hữu nào nữa. Hãy trụ trong
"bây giờ và ở đây", và cảm tưởng rằng ta hoàn toàn thanh
tịnh.
Ðến đây chấm dứt phần dự bị tu
tập thứ nhất: quy lạy và phát triển tâm Bồ Ðề.
Kim Cang
Quán
Vajrasattva [2], Tạng ngữ:
Dorjé Sempa, là một hóa thân của chư Phật dùng để thanh lọc giải trừ đau
khổ, phiền não, quả báo của những nghiệp xấu, ác đã tạo. Hóa thân này có
thể xuất hiện dưới nhiều hình tướng: hiền từ hoặc dữ tợn như Héruka
Vajrasattva, đơn độc hoặc với một nữ phối. Sau đây là một phương thức tu
tập với hóa thân Vajrasattva đơn độc.
Quán tưởng trên đầu ta, có Thầy
Bổn Sư (Lama) dưới hình tướng Vajrasattva, toàn thân màu trắng, tay phải
cầm một kim cang chùy (vajra) ngang giữa ngực, tay trái cầm một cái chuông
ngang hông. Ðầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Quán tưởng trên đảnh đầu chủng
tự PAM. Sau đó chủng tự này biến thành một hoa sen trắng, ở trên có chủng
tự AH, từ chữ AH xuất hiện một vành trăng tròn, ở trên có chữ HUM, chữ này
từ từ biến thành một kim cang chùy 5 đỉnh, và ở giửa chùy kim cang này lại
có một chữ HUM. Từ chữ HUM này phát ra nhiều đạo hào quang rồi sau đó lại
thu trở về hai lần: lần thứ nhất, những hào quang này hóa hiện ra muôn
ngàn trân châu quý báu cúng dường chư Phật, Bồ Tát; lần thứ hai, những hào
quang này tiêu trừ tất cả đau khổ của chúng sinh.
Tiếp theo, kim cang chùy biến
hình thành Vajrasattva như đã tả ở trên. Chân trái gấp lại, bàn chân đụng
dưới đùi phải, và chân phải hơi duỗi xuống dưới. Ở giữa ngực có một vành
trăng với một chữ HUM trắng ở trên.
Vajrasattva có một bài chú 100
chủng tự và một bài 6 chủng tự. Những chủng tự này thường được quán chiếu
theo nhiều cách: hoặc theo chiều kim đồng hồ, hoặc ngược lại, hoặc quay
tròn hoặc đứng yên. Riêng trong phép quán này, ta phải tụng 100.000 lần
bài chú 100 chủng tự, những chủng tự này màu trắng bất động, được sắp
chung quanh vành trăng theo chiều ngược của kim đồng hồ.
Sau khi quán tưởng như trên, ta
tụng: "Nam Mô Vajrasattva, con thành khẩn xin ngài giải trừ tất cả chướng
duyên và quả báo của những nghiệp xấu mà con đã tạo trong quá khứ". Ta cần
phải phát lồ sám hối và quán niệm về bốn điều hóa giải (lỗi
lầm).
Ðiều thứ nhất, nhớ tưởng lại
những lỗi lầm đã tạo và thành tâm ăn năn. Thứ hai, nguyện không bao giờ
tái phạm. Thứ ba, ghi nhớ những điều tốt như quy y, Bồ Ðề Tâm, giữ giới...
Thứ tư, thực hành những pháp thanh lọc, sám hối như Kim Cang quán để tiêu
trừ nghiệp chướng. Nếu không hội đủ bốn điều trên thì sự sám hối chỉ là
hào nhoáng bề ngoài.
Tiếp theo quán tưởng một nước
cam lồ trắng chảy từ ngón chân cái bên phải của Vajrasattva, xuống tới
đảnh đầu và chảy khắp toàn thân ta. Cùng lúc đó, tất cả những chướng
duyên, nghiệp báo đều bị tống khứ, và toàn thân ta chỉ còn là cam
lồ.
Nước cam lồ này bắt nguồn từ
chữ HUM và bài chú 100 chủng tự nằm trên vành trắng ở ngực Vajrasattva,
chảy xuống thấm vào thân ta.
Quán tưởng rằng từ những lỗ
chân lông và chín khứu của ta, những chướng duyên thoát ra ngoài như mồ
hôi và nhựa đen; bệnh tật, ốm đau thoát ra ngoài như máu mủ; tà ma, quỷ
ếm, như rắn, bò cạp, nhện độc và sâu bọ. Tất cả đều chảy ra ngoài và thấm
xuống đất. Bấy giờ toàn thân ta chỉ còn lại nước cam lồ trắng và hào
quang.
Ta hãy quán tưởng tất cả chúng
sinh cũng đều có một vị Vajrasattva ở trên đầu và đang lãnh nhận sự thanh
lọc như ta.
Hài lòng, vị Bổn Sư
(Vajrasattva) biến thành hào quang (rồi nhập vào ta), và quán tưởng rằng
thân, ngữ, ý của ta và của Vajrasattva nhập một không khác. Tất cả nghiệp
chướng lúc này thảy đều được tiêu trừ.
Ðến đây kết thúc phần dự bị tu
tập thứ hai: quán tưởng về Vajrasattva và trì tụng thần
chú.
Chú thích:
[1] Sách Tây Tạng thường nói
"giòng tâm thức" để chỉ định cái tâm. Vì theo các trường phái Duy Thức
và Trung Quán thì tâm không phải một vật có tự tánh cố định mà là một
giòng ý thức luôn trôi chảy
[2] Vajrasattva: Việt dịch là
Kim Cang Tát Ðỏa, cho đó là một vị Kim Cang thần hay Bồ Tát, nhưng đối
với Tây Tạng thì đó là một hóa thân Phật.
Cúng dường Mạn Ðà
La
Thông thường, sự cúng dường
không có nghĩa là làm vui lòng hay lấy điểm với bề trên, nó thể hiện lòng
dâng hiến toàn vẹn cho sự giác ngộ, đại diện bởi các bậc Thầy và ngôi Tam
Bảo; đồng thời cũng giúp cho ta gặt hái được nhiều công đức và lợi lạc.
Khi ta gieo những hạt giống vào một cánh đồng, chính ta sẽ là người hưởng
lợi chứ không phải cánh đồng. Sự cúng dường đến ngôi Tam Bảo cũng giống
như vậy.
Có nhiều loại Mạn Ðà La. Những
cảnh lâu đài thiên cung, nơi cư ngụ của các vị Bồ Tát, Hộ Pháp, được xem
là một loại. Ðó là những kiểu mẫu thường thấy trên tranh ảnh (thangka).
Riêng Mạn Ðà La dùng ở đây thuộc loại cụ thể, cấu tạo bằng một nền phẳng
với những vòng tròn, gạo, hạt cây hoặc ngọc báu, tất cả tượng trưng cho
toàn thể vũ trụ.
Quán tưởng trên hư không trước
mặt, có một lâu đài Mạn Ðà La vĩ đại. Ở trung tâm là vị Bổn Sư (dưới hình
dạng Vajradhara), phía trước ngài là những vị Thần Linh Quán [1], bên phải
là chư Phật, đằng sau là tam tạng giáo điển, và bên trái là toàn thể Tăng
Già. Ðây là Mạn Ðà La sơ khởi, đối tượng của sự cúng dường.
Tiếp theo ta cấu tạo một Mạn Ðà
La khác với những dụng cụ nhỏ đặc biệt, và tụng lên bài kệ cúng
dường.
Dùng một cái dĩa bằng phẳng làm
nền tảng cho Mạn Ðà La (vật cúng dường). Một tay cầm dĩa, tay kia lau mặt
dĩa và tụng bài chú 100 chữ của Vajrasattva để tẩy trừ mọi lậu hoặc. Sau
đó, nhỏ một giọt nước (trong và thơm) lên trên tượng trưng cho Bồ Ðề Tâm
hướng và lòng đại bi. Tiếp theo, đặt một cái vòng thứ nhất lên mặt dĩa và
đổ đầy những hạt gạo, đậu, v.v..., ở bốn góc một vài hạt kim cương, ngọc
báu [2]; sau khi đổ đầy vòng thứ nhất, tiếp tục như vậy cho đến vòng nhỏ
cuối cùng, và đặt trên vòng này một bảo vật. Ðây là sự cúng dường cụ thể
tượng trưng bên ngoài.
Trong lúc cấu tạo Mạn Ðà La để
cúng dường bên ngoài, ta đọc lên bài kệ thích hợp. Ðọc đến đâu, quán tưởng
đến đó, đây thuộc về ý cúng dường. Vật mà ta cúng dường tượng trưng cho
toàn vũ trụ, thường được miêu tả trong giáo lý A Tỳ Ðàm
(Abhidharma).
Vũ trụ thường được miêu tả dưới
nhiều hình thức khác nhau, tuỳ trường hợp, vì căn cơ và nghiệp báo của
thính chúng không đồng, nên khiến mỗi người thấy sự vật khác nhau. Riêng
theo sự miêu tả ở đây thì có một dãy đất bằng huỳnh kim, chung quanh bao
bọc bởi những bức tường sắt, bên ngoài là biển mặn. Bên trong bức tường, ở
bốn góc có bốn châu (lục địa), mỗi châu lại nằm giữa một đại dương. Từ mỗi
châu tiến dần vào trung tâm điểm gồm có bảy vòng đai xen kẽ với bảy núi
vàng và bảy hồ thanh lương. Ở trung tâm điểm là núi Tu Di (Suméru), hình
vuông giống bửu tháp (stupa) bốn tầng. Mặt núi phương đông bằng ngọc pha
lê trắng, phương nam bằng ngọc lưu ly, phương tây bằng ngọc hồng bào và
phương bắc bằng ngọc bích. Bầu trời và mặt biển ở bốn phía đều mang cùng
màu tương hợp với ngọc núi. Lục địa (châu) phương đông hình bán nguyệt,
mặt thẳng đối diện núi Tu Di, lục địa phương nam hình thang, lục địa
phương tây hình tròn và lục địa phương bắc hình vuông.
Quả đất chúng ta đang ở thuộc
phương nam (Nam Thiện Bộ Châu), biển và bầu trời màu xanh lơ. Những châu
còn lại (đông, tây, bắc), ta không thể đến được bằng tàu bay hay phi
thuyền, trừ khi ta tạo những nghiệp tương ưng với các chúng sinh ở
đó.
Bài kệ mà ta phải lập lại
100.000 lần trong lúc thược hành pháp này là: "Hướng về tất cả các cõi
Tịnh Ðộ của chư Phật, con xin cúng dường Mạn Ðà La này, làm bằng hoa, dầu
thơm, trầm hương, trang hoàng với núi Tu Di, tứ châu và nhật nguyệt.
Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được sinh về các cõi Tịnh
Ðộ."
Bằng sự cúng dường này, ta sẽ
tích tụ được hai thứ: phước đức và trí huệ.
Sau khi cúng dường xong, quán
tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát trong Mạn Ðà La đối tượng, tan biến thành
hào quang và thấm nhập vào ta.
Cúng dường Mạn Ðà La cụ thể và
ý tưởng giúp ta gặt hái nhiều công đức. Cùng lúc đó, ta phải quán chiếu
luôn về tánh Không của các pháp, tức năng cúng và sở cúng đều trống rỗng,
không có thực tánh, nhờ đó trí huệ sẽ tăng trưởng. Tích tụ công đức dẫn
đến sự thành tựu Hóa thân (Nirmanakaya) và Báo thân (Sambhogakaya). Những
chúng sinh tu hành nhiều đời, gieo tạo căn lành có thể thấy được Hóa thân
Phật. Riêng Báo thân Phật, chỉ có hàng đại Bồ Tát, những vị đã thực sự
trực nghiệm tánh Không (Sunyata) mới thấy được. Tích tụ Trí Huệ (Bát Nhã)
dẫn đến sự chứng đạt Thể Tánh thân (Svabhavakaya) và Pháp thân
(Dharmakaya). Theo ý nghĩa tập luận ở đây thì Thể Tánh thân chính là nhất
thiết trí của Phật, còn Pháp thân là tổng tánh bất dị của ba thân trước.
Tuy nhiên. ở vài nơi khác, sự định nghĩa của hai thân này có thể đổi
ngược, nhưng thường thì chỉ có Pháp thân là hay được đề cập
đến.
Ðến đây chấm dứt phần dự bị tu
tập thứ ba: cúng dường Mạn Ðà La.
Chú thích:
[1] Divinité de méditation
(Yidam): tức là các vị Bồ Tát Hộ Thần, Hộ Mạng, còn được dịch là Ðại
Thần Linh Thủ Hộ. Những vị này xuất hiện rất nhiều trong các pháp thiền
quán Mật giáo và giữ một vai trò trọng yếu đối với hành giả Mật tông Tây
Tạng.
[2] Kim cương, ngọc báu ở đây
không bắt buộc là đồ thiệt. Có thể dùng những đồ trang sức bằng nhựa hay
đá đẹp để tượng trưng
Bổn Sư Du
Già
Bài dự bị tu tập chót nhằm mục
đích tích tụ công đức và sự gia hộ hay ban phép lành của chư Tổ. Ðó là
Guru Yoga.
Ở đây ta phải quán tưởng ta
dưới hình dạng của một Thần Linh Quán (divinité de
méditation).
Quán tưởng ở phía trên đầu là
vị Bổn Sư (Lama racine) hiện dưới hình dạng thông thường hoặc của một Thần
Linh Quán. Sau đó tất cả chư Tổ của giòng truyền (lignage) ngược trở lên
cho đến đức Phật Vajradhara đều ngồi theo một hàng dọc hoặc chung quanh
trên đầu vị Bổn Sư. Tiếp theo ta hướng về chư vị đó và cầu nguyện với lòng
thành khẩn, tôn kính chân thật vô biên.
Khi lòng thành khẩn của ta tăng
trưởng đến mức tột cùng, hãy giữ nguyên trạng thái đó và bắt đầu quán
tưởng chư Phật, Bồ Tát, chư Thần Dakas, Dakanis, Hộ Pháp, Hộ Mạng, chư Tổ
đều tan nhập vào vị Bổn Sư. Vị Bổn Sư lúc đó phải được xem là hóa thân của
tất cả các vị trên.
Có nhiều loại Thần Linh Quán,
đối tượng của Guru-yoga. Ta có thể quán tưởng vị Bổn Sư dưới hình dạng
thông thường hoặc hình dạng Vajradhara, Marpa, Milarépa, Gampopa, Karmapa,
v.v...
Tiếp theo, thực hiện sự cúng
dường bên ngoài, bên trong và bí mật, cũng như bài Kinh "Thất Nguyện"
(Septuple Puja).
Bài Kinh Thất Nguyện gồm: 1) Lễ
lạy, 2) Cúng dường, 3) Sám hối, 4) Tùy hỷ công đức, 5) Thỉnh quý Thầy
giảng pháp, 6) Thỉnh quý Thầy trụ thế, 7) Hồi hướng công
đức.
Khởi tâm trở về nương tựa Tam
Bảo, củng cố tâm Bồ Ðề và cầu nguyện như sau: "Tất cả chúng sinh (là cha
mẹ quá khứ) số lượng như hư không, xin hướng về Bổn Sư hiện thân của tam
thân Phật, hãy từ bi ...".
Bài cầu nguyện trên dạy rằng
phải quán tưởng vị Bổn Sư không khác đức Phật, hiện thân của Tam Bảo. Thân
của ngài tiêu biểu cho Tăng Già, lời của ngài là Giáo Pháp và tâm của ngài
là chư Phật. Thân, ngữ, ý của Phật chính là Tam Bảo và cũng không khác tam
thân Phật. Bài tụng trên có thể được lập đi lập lại 100.000 lần hoặc hơn.
Thông thường hành giả cũng tụng thêm bài kệ sáu câu của ngài Karmapa đệ
nhất và một triệu lần bài chú của ngài: "Con thành tâm cầu nguyện đến
ngài, vị Thầy tôn kính. Xin ngài gia hộ cho con khiến:
1) Tâm con không còn chấp
chặt vào một cái "Ta thường hằng".
2) Giòng tâm thức của con có khả
năng thấy rằng tất cả ý tưởng thế gian đều là ảo ảnh.
3) Tất cả ý
nghĩ trái ngược Phật pháp đều ngưng khởi.
4) Con hiểu rằng bổn tâm
vốn bất sanh (diệt).
5) Tất cả thành kiến sai lầm (nhị biên) đều tiêu
tan.
6) Con thấu triệt các pháp đều là Pháp
thân."
Sau đó vị Thầy (Lama) tan nhập
vào ta. Quán tưởng rằng thân, ngữ, ý của ngài và Tâm ta trở thành một,
không hai, không khác. Hãy trụ trong trạng thái bất nhị đó càng lâu càng
tốt.
Sau khi tụng chú xong, quán
tưởng vị Bổn Sư đang truyền cho ta bốn phép điểm đạo Mật giáo (initiations
tantriques):
Trước hết từ trán vị Bổn Sư,
một hào quang trắng phóng ra bay vào trán ta, tẩy trừ tất cả phiền não
thuộc thân nghiệp. Ðây là điểm đạo sơ khởi, giúp ta tu tập các pháp trong
giai đoạn tăng trưởng và gieo những chủng tử của sự thành tựu Hoá
thân.
Từ cổ vị Bổn Sư, một hào quang
đỏ phóng ra bay vào cổ ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc khẩu nghiệp. Ðây
là điểm đạo bí mật, giúp ta quán chiếu về giai đoạn thành tựu các pháp dẫn
chuyển những luồng khí lực vi tế trong thân và gieo những chủng tử của Báo
thân.
Từ tim vị Bổn Sư, một hào quang
xanh lơ phóng ra bay vào tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc ý nghiệp.
Ðây là điểm đạo trí huệ, giúp ta tiến tu các pháp siêu nhập và gieo những
chủng tử của Pháp thân.
Cuối cùng, cả ba hào quang
trắng, đỏ, xanh từ ba nơi trên người vị Bổn Sư đồng phóng ra bay vào trán,
cổ, và tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não của ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ðây
là điểm đạo linh âm tối thắng, giúp ta thành tựu Ðại Thủ Ấn, hay giai đoạn
vô tướng và gieo những chủng tử của Thể tánh thân.
Sau lễ điểm đạo, tất cả chư Tổ
của hệ phái tan nhập vào vị Bổn Sư, và vị này cũng tan nhập vào
ta.
Hãy trụ trong trạng thái bất
nhị và vô niệm này. Sau đó hồi hướng công đức cầu cho tất cả chúng sinh
sớm mau giác ngộ.
Nếu tinh tấn tu tập pháp này ta
sẽ nhận được nhiều sự gia trì, ủng hộ của chư Tổ, khiến ta sớm thâm nhập
được Ðại Thủ Ấn.
Ðến đây kết thúc phần dự bị tu
tập đặt biệt của Kim Cang thừa: Bổn Sư Du Già.
Vô thường và sự
chết
Nếu không quán chiếu về vô
thường thì tâm sẽ không bao giờ dứt bỏ sự dính mắc cuộc đời. Nếu tâm còn
dính mắc thì còn sinh tử luân hồi. "Sự sống của con người luôn luôn bị đe
dọa, nó vô thường mỏng manh như hòn bọt trên mặt nước, có thể vỡ tan dưới
cơn gió nhẹ. Quả thực là một phép lạ cho chúng ta, sau khi thở ra lại có
thể hít vào được một hơi khác, và sau khi ngủ dậy, thấy rằng mình vẫn còn
sống." (Nagarjuna, Suhrillekla).
Tất cả sự vật, do nhân duyên
giả hợp, đều vô thường, sự sống của mọi loài cũng vậy. Ta không thể nào
biết chắc khi nào ta sẽ chết. Thêm vào đó, khi cái chết đến, ta không thể
cầu cứu với ai được, ngoại trừ Phật pháp. Nếu lúc còn sống, ta tự thả trôi
theo giòng đời, bám víu vào dục lạc nhất thời, thì chắc chắn không thể nào
thoát khỏi nguyên nhân của đau khổ. Vậy ta hãy phát nguyện quán chiếu về
sự chết mỗi khi tâm ta chạy theo ngũ dục (tài, sắc, danh, thực,
thùy).
Tất cả sự vật, là những pháp
hiện hữu do nhiều nhân duyên kết tạo, đều vô thường. Tất cả động vật, bất
động vật, sinh vật và cảnh vật đều là pháp giả hợp. Một bức tường cứng rắn
hôm nay, có thể tiêu tan thành cát bụi ngày mai. Sự sống của ta lại càng
mong manh và dễ mất hơn nữa. Không ai dám quả quyết rằng mình sẽ còn sống
ngày mai, và một khi chết đến thì ngay cả bạn bè, bà con, bác sĩ, thuốc
thang, tiền tài, danh vọng cũng đều bất lực. Chỉ có một điều duy nhất cứu
giúp ta được, đó là sự tu hành theo Phật pháp. Nếu sống một đời đạo đức và
tạo nhiều việc thiện, ta có thể nhắm mắt chết bình thản, vì biết rằng với
một nghiệp thiện, ta sẽ tái sinh nơi nhàn cảnh.
Không nên dại dột nghĩ rằng
thỏa mãn những thú vui thể xác sẽ đem lại cho ta hạnh phúc lâu
dài.
Khi mắt bị thu hút bởi những gì
đẹp đẽ và dễ coi ta hãy nghĩ đến cái chết của con thiêu thân lao mình vào
lửa, chỉ vì ưa thích ánh sáng. Về khoái lạc thể xác cũng vậy, hãy nghĩ đến
những con ong bị nuốt sống bởi cây thằng thảo, vì ưa mùi hương; những con
ruồi bị chết ngộp trong hầm phẩn vì ưa thích phân uế; những con cá bị mắc
câu vì ham miếng mồi ngon.
Quán chiếu suy nghĩ về những
thí dụ trên sẽ giúp tâm nhàm chán, lìa bỏ dục lạc của thế gian và thấy đó
chỉ là những nguyên nhân dẫn đến khổ đau.
Ý thức được cái chết có thể đến
bất cứ giờ phút nào, sẽ giúp ta tu hành tinh tấn. Hãy tập nhìn đồ ăn và y
phục như một tên tử tội, sắp bị đem ra pháp trường, nhìn bữa ăn và bộ quần
áo cuối cùng.
Hãy nhớ lại, bao nhiêu bạn bè,
họ hàng người thân của ta đã ra đi? Họ đã ra đi thế nào và bây giờ xác
thân của họ còn lại gì? Nghĩ đến họ xong rồi nghĩ lại bản thân ta cũng sẽ
chung số phận. Làm sao khởi được trong tâm sự sợ hãi giống như đang bị tên
đao phủ lôi ra pháp trường. Khi tâm hoàn toàn nhàm chán tất cả sự vật thế
gian, hãy giữ nguyên và trụ tâm ở trạng thái đó. Ðây là bài dự bị tu tập
thứ năm: quán chiếu về sự chết và vô thường.
Phép quán chiếu trên không phải
để làm cho ta bi quan chán đời. Nếu quán chiếu rằng: "Tôi sắp chết và chả
làm được gì cả!", đây lại là một nguyên nhân của đau khổ, lo âu. Mục đích
của phép quán chiếu trên là thúc đẩy ta tu hành tinh tấn và hiểu rõ nghiệp
báo hay luật nhân quả có thể ảnh hưởng đến sự tái sinh đời sau. Sau nữa,
nó đào luyện cho ta tánh dũng cảm sẵn sàng đối phó với cái chết như người
chiến sĩ nơi sa trường.
"Xưa kia, ta đã rút lui vào núi
ẩn tu, chỉ vì ta quá sợ chết. Nhưng ngày hôm nay, cái chết có thể đến, ta
không còn sợ hãi nữa, vì ta đã thấy và trở về với chân tánh của tâm [1]."
(Djetsun Milarépa)
Chú thích:
[1] Véritable nature de
l’esprit: dịch là bổn tánh hay chân tánh của tâm. Thực ra tâm và tánh
khác nhau, nhưng đa số chúng ta thường cho tâm là tánh.
Nghiệp báo và luật nhân
quả
Tiếp theo ta cần sáng suốt biết
rõ những gì đáng làm và những gì nên tránh phù hợp với luật nhân quả. Một
người tạo nhân nào thì chính người đó sẽ hưởng quả nấy, đó là luật tự tác
tự thọ.
Phạm mười điều ác sẽ dẫn đến
tái sinh trong kiếp sống đau khổ. Những hành động chi phối bởi tam độc,
tùy theo nặng, trung bình, nhẹ, sẽ dẫn đến tái sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ,
hoặc súc sinh. Ngược lại những hành động tốt lành, đạo đức, tùy theo làm
nhiều, vừa hay ít, sẽ dẫn đến tái sinh nơi cõi Vô Sắc, Sắc hoặc cõi trời
Dục Giới.
Do đó ta phải luôn luôn kiểm
soát (những hành động qua) ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Theo luật nhân quả thì sự an
vui hạnh phúc là kết quả của những hành động thiện hay nghiệp "trắng"
(bạch nghiệp), và sự đau khổ là kết quả của những hành động xấu ác hay
nghiệp "đen" (hắc nghiệp). Do đó ta cần phải dứt bỏ những hành động xấu ác
và phát triển hạnh lành nếu ta muốn đem lại hạnh phúc cho chính ta và mọi
người.
Mười điều ác bao gồm ba điều
của thân, bốn của lời nói và ba của tâm ý. Ba điều về thân là: sát sinh,
trộm cắp, tà dâm. Bốn điều thuộc lời nói là: nói dối, nói lời chia rẽ, nói
lời dụ dỗ và mắng chửi. Ba điều thuộc tâm ý là: tham muốn những gì thuộc
sở hữu của kẻ khác, nuôi dưỡng lòng sân hận, và chấp chặt những tà kiến (ý
nghĩ sai lầm) như không tin luật nhân quả.
Không làm mười điều ác kể trên
có thể được xem là mười điều thiện. Song le, nếu có tâm nguyện Bồ Tát ta
có thể làm mười điều thiện hảo sau đây: cứu sống sinh vật; bố thí; giữ
giới và khuyên người khác giữ giới; nói lời chân thật; nói lời hoà giải;
đem lại tin yêu; nói lời êm dịu; ít muốn và biết đủ; nuôi dưỡng lòng từ
bi; giảng nói chánh kiến.
Từ bỏ sát sinh, cứu sống mạng
người sẽ được trường thọ; ngược lại, tiếp tục giết hại thì mạng căn ngắn
ngủi và đầy bệnh tật. Quảng đại bố thí sẽ đưa đến giàu có; trộm cắp dẫn
đến nghèo khổ, nạn nhân của bóc lột. Giữ giới thanh tịnh thân thể sẽ được
cường tráng, an vui hòa thuận vợ chồng; phá giới, tà dâm, thân thể sẽ bạc
nhược, gia đình tan rã. Nói lời chân thật sẽ được tin cậy; nói dối đem lại
bất tín. Nói lời hòa giải thì bạn bè luôn luôn thắm thiết; nói lời chia rẽ
gây nhiều kẻ thù và sự ganh ghét. Nói lời đứng đắn, không ỷ ngữ sẽ được
nghe lại nhiều điều hữu ích; nói xàm hay dụ dỗ sẽ bị nghe lại những điều
lẩm cẩm vô ích. Nói lời êm dịu sẽ được kính mến; nói lời hung dữ sẽ bị
mắng chửi.
Nếu biết tự mãn không tham lam,
đời sống sẽ cụ túc. Nếu luôn luôn dòm ngó, ham muốn vật sở hữu của người
thì muôn đời thiếu thốn. Có lòng từ bi sẽ được đối xử tử tế và kính trọng,
ngược lại, độc ác sẽ bị đối xử tệ bạc và nghi ngờ. Giảng nói điều chân
chính thì thông minh và trí huệ sẽ tăng trưởng, chấp chặt vào sự hiểu biết
sai lầm thì tâm trí sẽ nhỏ hẹp và ngu đần.
Trên đây kể sơ lược kết quả của
những hành động (nghiệp nhân). Có một cách khác đoán biết nghiệp quả tương
lai, đó là nhìn vào những động lực thúc đẩy sự tác nghiệp. Nếu hành động
tác nghiệp bị chi phối bởi kiêu mạn sẽ dẫn đến tái sinh trong loài trời;
loài A Tu La bởi sự ganh tỵ; loài người bởi sự ham dục; loài súc sinh bởi
sự u mê; loài quỷ đói bởi sự keo kiệt và loài địa ngục bởi sự ác
độc.
Sau khi nghiên cứu và học hỏi
kỹ lưỡng luật nhân quả và nghiệp báo, ta cố gắng làm nhiều và tăng trưởng
điều lành, ngăn chặn và dứt bỏ điều ác. Ðó là bài dự bị tu tập thứ
sáu.
Sự đau khổ
của luân hồi
Nếu muốn giải thoát khỏi luân
hồi, ta cần phải quán chiếu về đau khổ và sang tâm nhàm chán nó. Có thực
sự nhàm chán mới nôn nóng tìm cầu giải thoát. Còn không thì dù có học rộng
biết nhiều (kinh điển) cũng chỉ lần lựa qua ngày, tiếp tục trôi lăn trong
sanh tử.
Bây giờ hãy quán sơ về nỗi khổ
của chúng sanh trong lục đạo. Chúng sanh ở địa ngục bị hành hạ, thiêu đốt;
ngạ quỷ luôn luôn đói khát; súc sinh bị đánh đập, nuốt xé; loài người phải
sinh, già, bệnh, chết; A Tu La luôn luôn chiến tranh; loài trời thì đau
đớn và sợ hãi lúc mạng chung.
Tất cả những gì xảy đến với
chúng ta, dù đau khổ hay sung sướng cũng đều là đau khổ, vì nằm trong "khổ
khổ", "hành khổ" và "hoại khổ". Dù tái sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương
(Cakravartin), Phạm Thiên (Brahma) hay Ðế thích (Indra), v.v..., cũng
không thể thoát khỏi ba cái khổ trên. Ý thức và tin chắc rằng sinh tử,
luân hồi chẳng khác chi ngục tù, hầm lửa, vực sâu, ta phải nhanh chân tìm
cầu ngay từ bây giờ một con đường giải thoát.
Có ba loại đau khổ: khổ khổ,
hành khổ và hoại khổ. Khổ khổ là sự đau khổ thông thường (khổ trong cái
khổ) như bịnh hoạn, già yếu, v.v... Có nhiều sự vật bên ngoài dường như
sung sướng, nhưng giây phút sau liền đem lại đau khổ: một bữa yến tiệc
linh đình có thể đem lại đau bụng hay bội thực, một phút khoái lạc nhục
dục có thể đem lại bệnh tật suốt đời. Ðây gọi là hành khổ, sự đau khổ của
biến chuyển bất thường.
Có một sự đau khổ luôn luôn
hiện hữu, tiềm tàng trong mọi vật mà người thường gần như không hay biết,
nhưng đối với các bậc Thánh (Aryas) đã có cái thấy thanh tịnh về tánh
Không thì lại thấy rõ ràng như ban ngày, đó là Hoại khổ. Tất cả sự vật
trên thế gian này đều do nhân duyên giả hợp mà có, đều đang bị tàn hoại
trong từng giây phút, từng sát na.
Sau khi quán chiếu như trên, ta
làm khởi lên sự nhàm chán đối với cuộc đời và phát tâm cầu giải thoát khỏi
đau khổ. Ðây là tâm nguyện của Tiểu thừa, và nếu phối hợp với sự thấu hiểu
về tánh Không (Vacuité) sẽ dẫn đến giải thoát hoàn toàn. Nếu muốn giải
thoát và cùng lúc đạt được nhất thiết trí (omniscience) thì ta phải tiến
xa hơn. Ngoài sự sanh tâm nhàm chán cuộc đời, ta cần phát khởi tâm Bồ Ðề.
Ý thức được tất cả chúng sinh trong luân hồi đều đang chịu đau khổ, mong
muốn được giải thoát, nên ta cần phải cố gắng đạt được Phật quả [1] để cứu
độ họ. Chính nhờ tâm nguyện này phối hợp với sự chứng ngộ Không tánh sẽ
dẫn đến Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Trên đây là bài dự bị tu tập
thứ bảy: quán chiếu về đau khổ của luân hồi và phát tâm Bồ
Ðề.
Chú thích:
[1] Các sách Âu Mỹ khi nói
đến sự chứng ngộ hay thành Phật thường dùng chữ Etat de Buddha, vì chứng
ngộ là một trạng thái tâm linh hơn là thể xác.
Ðược thân người là chuyện hy
hữu
Chúng ta tu hành, tụng kinh,
ngồi thiền được là nhờ có thân người quý báu. Tuy vậy đa số lại hờ hững
không để ý, thả trôi theo trụy lạc và lười biếng. Nếu ngày mai thần chết
đến, ta phải lìa bỏ xác thân ra đi với hai bàn tay trắng, lúc đó ta sẽ ra
sao? Phải biết, có được thân người là chuyện hy hữu, vì rất khó được mà
lại dễ mất. Do đó ta đừng phí phạm ngày giờ, hãy dành trọn cuộc đời vào sự
tu học và thiền quán. Quán chiếu như vậy thuộc bài dự bị tu tập thứ
tám.
Một thân người có đầy đủ lục
căn và nhân duyên để học và hành Phật pháp quả thật hiếm có và quý giá. Nó
là một dụng cụ dẫn ta đến giác ngộ và giải thoát, nhưng ngược lại, nếu
không cẩn thận, nó cũng có thể dẫn ta đầu thai ở những cảnh khổ. Tái sanh
được làm người như trên do nhờ đời trước đã tích tụ công đức và trí huệ,
nhất là giữ giới cũng như thành tâm cầu nguyện. Tôn giả Bình Thiên
(Santidéva) nói rằng: "Thân người rất khó được, chẳng khác chi việc một
con rùa mù sống dưới đáy biển, 100 năm mới trồi lên mặt nước một lần để
chui cổ vào một cái vòng vàng, mà gió thổi lênh đênh trên mặt biển". Trong
thí dụ trên, con rùa tượng trưng chúng sinh, mù là vô minh, ở dưới đáy
biển là sống trong ba đường khổ, trồi lên mặt biển là tái sinh, vòng vàng
tượng trưng cho thân người, gió thổi vòng trôi lênh đênh chính là gió
nghiệp.
Tính theo số lượng thì sự tái
sinh làm người cũng vô cùng khan hiếm. Trong Kinh sách thường nói số chúng
sinh ở địa ngục đông như số cát trong sa mạc, số ngạ quỷ như những hạt bụi
trong không khí, số thú vật như những ngôi sao trên trời ban đêm và số
loài người như những ngôi sao thấy được ban ngàỵ. Mặt khác, ta có thể kiểm
tra nhân số của một nước, nhưng không thể nào tính đếm được số thú vật,
côn trùng và vi trùng ở trong nước đó.
Ngoài ra, trong số dân chúng
trên địa cầu này, những người có lòng từ bi, quảng đại rất hiếm, và trong
số này những người có nhân duyên và khả năng tu tập Phật pháp lại ít hơn
một trăm ngàn lần. Do vậy, một khi đã có được thân người, đừng nên phí
phạm; cái chết luôn luôn đến quá sớm, quá bất ngờ. Ta đừng nên giống như
những người lái buôn ra biển tìm kho tàng, bảo vật mà lại trở về tay
không. Hãy từ bỏ những khoái lạc phù du, tinh tấn tu tập Phật pháp để sớm
đạt hạnh phúc tuyệt đối, vĩnh cửu.
Bốn điều
kiện cần thiết
Luôn luôn ghi nhớ trong tâm về
sự vô thường của cuộc đời và sanh tâm nhàm chán. Phải nương theo một vị Thầy giác ngộ. Ðây là điều
kiện chính yếu dẫn đến thành công. Dứt bỏ những thành kiến phân biệt về
tông phái. Tất cả giáo lý của các trường phái khác nhau chỉ là những
phương tiện thiện xảo, tùy theo căn cơ của chúng sinh, dẫn đến giác ngộ,
giải thoát. Do đó không nên khởi tâm nghi ngờ về pháp môn mình đang tu
tập.
Mặc dù thành tâm tinh tấn tu
tập nhưng không dính mắc vào hy vọng và lo âu như nghĩ rằng: "Nếu ta thiền
quán bây giờ, hoặc trong quá khứ hoặc tương lai, thì ta được phước, nếu
không thì thật xấu hổ, v.v...".